ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ 109 BỆNH NHÂN CHẢY MÁU MŨI, TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 110, TỪ THÁNG 01/2021 ĐẾN 12/2022
DOI:
https://doi.org/10.59459/1859-1655/JMM.308Từ khóa:
Chảy máu mũi, cầm máu, nội soi đông điệnTóm tắt
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị chảy máu mũi tại Bệnh viện Quân y 110.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang 109 bệnh nhân chảy máu mũi, vào điều trị tại Bệnh viện Quân y 110, từ tháng 1/2021 đến 12/2022.
Kết quả: Hay gặp chảy máu mũi ở bệnh nhân nam giới (87,2%), từ 40 tuổi trở lên (51,4%), vào thời điểm mùa Đông-Xuân (67,9%), trên người có bệnh lí nền tăng huyết áp (74,3%) và chảy máu mũi mức độ nhẹ (75,2%). Với các bệnh nhân chảy máu mũi mức độ nhẹ, xử trí chủ yếu là tiêm cầm máu và nhét merocell mũi. Với các bệnh nhân chảy máu mũi mức độ nặng hoặc chảy máu mũi dai dẳng, tái phát nhiều lần, cần điều trị bằng nội soi đông điện cầm máu khi các kĩ thuật khác thất bại. Tỉ lệ thành công của kĩ thuật tiêm thuốc cầm máu là 15/109 bệnh nhân (13,8%), nhét merocell mũi là 52/94 bệnh nhân (55,3%) và nội soi đông điện là 41/42 bệnh nhân (97,6%); thời gian nằm viện trung bình là 6,8 ngày.
Tài liệu tham khảo
Tan L.K.S, Calhoun K.H (1979), "Epistaxis", Medical Clinnics of North America, 1979; 83(1): 43-56.
Bộ Y tế (2010), Tai mũi họng, Nhà xuất bản Giáo dục.
Nguyễn Quốc Dũng và cộng sự (2013), "Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và xử trí CMM tại Khoa Tai mũi họng, Bệnh viện Trung ương Huế", Tạp chí Y dược học (Trường Đại học Y dược Huế), số 24.
Nguyễn Trọng Tài (2014), “Nghiên cứu hiệu quả các biện pháp can thiệp trong điều trị CMM”, Tạp chí Y học thực hành (914), số 4/2014.
Nghiêm Đức Thuận (2013), “Đặc điểm lâm sàng CMM”, Tạp chí Y học thực hành số 2, tr. 99-103.
Phạm Thị Bích Đào, Phạm Trần Anh (2014), "Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng BN CMM do tăng huyết áp, tại Bệnh viện Tai mũi họng Trung ương", Tạp chí Y học dự phòng, tập XXVI, số 8 (181) 2016.
Phan Xuân Hoa và CS (2016), "Khảo sát tình hình CMM tại Bệnh viện Trưng Vương", Tạp chí Y học Tp. HCM, tập 20, số 5/2016.